Phát triển cây mì bền vững

14:23, 24/07/2023
.

(Báo Quảng Ngãi)- Thông qua việc nghiên cứu xây dựng mô hình canh tác tổng hợp cho cây mì ở Quảng Ngãi, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) đã đề xuất giải pháp khoa học và công nghệ (KH&CN) nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất mì và ổn định độ phì nhiêu của đất.

Tìm giải pháp cho phát triển cây mì

Quảng Ngãi là tỉnh nằm trong 5 vùng trọng điểm trồng mì của nước ta, với diện tích hằng năm dao động từ 16 - 17 nghìn héc ta. Mì được coi là cây xóa đói giảm nghèo cho các vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi, cây hàng hóa ở vùng miền xuôi. Cây mì được trồng phân bố ở hầu khắp các huyện trong tỉnh, trải dài từ các huyện miền núi, trung du, đến các huyện đồng bằng, ven biển. Năng suất trung bình 19,4 tấn/ha, sản lượng hằng năm khoảng trên 300 nghìn tấn. Qua đó, phục vụ cho các nhà máy chế biến tinh bột xuất khẩu và sản xuất ethanol nhiên liệu sinh học đáp ứng nhu cầu năng lượng của các ngành công nghiệp khác.

Mô hình canh tác tổng hợp cho phát triển cây mì bền vững tại xã Tịnh Bình (Sơn Tịnh).
Mô hình canh tác tổng hợp cho phát triển cây mì bền vững tại xã Tịnh Bình (Sơn Tịnh).

Những năm gần đây, năng suất mì của tỉnh đã được cải thiện. Tuy nhiên, so với các tỉnh khác, năng suất mì trung bình của Quảng Ngãi vẫn còn ở mức trung bình thấp và không đồng đều giữa các vùng trong tỉnh. Mì trồng ở miền núi, năng suất thường thấp hơn vùng trung du và đồng bằng. Xuất phát từ những vấn đề trên, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa đã thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia, nhằm nghiên cứu xác định nguyên nhân suy giảm năng suất, chất lượng mì và đề xuất giải pháp KH&CN phát triển bền vững cây mì tại Quảng Ngãi.

Đề tài đã tiến hành lấy 400 mẫu đất trồng mì tại Quảng Ngãi, trong đó 2 huyện Ba Tơ và Mộ Đức mỗi huyện 150 mẫu và huyện Sơn Tịnh 100 mẫu. Đồng thời, phân tích các tiêu chí lý hóa đất; điều tra hộ nông dân xác định các yếu tố hạn chế về kỹ thuật canh tác; điều tra, đánh giá ảnh hưởng của các loại sâu, bệnh hại trên cây mì tại 270 hộ dân của 3 huyện; lấy 240 mẫu thân, lá, củ, dịch hại và 45 mẫu đất để phân tích và giám định tác nhân gây bệnh.

Cán bộ Viện Thổ nhưỡng Nông hóa kiểm tra sinh trưởng của cây mì tại khu vực thực hiện mô hình.
Cán bộ Viện Thổ nhưỡng Nông hóa kiểm tra sinh trưởng của cây mì tại khu vực thực hiện mô hình.

Kết quả điều tra và đánh giá, đề tài đã xác định 3 nguyên nhân chính làm suy giảm năng suất, chất lượng mì của tỉnh. Giống mì bị nhiễm bệnh khảm lá lây từ vụ trước sang vụ sau là nguyên nhân chính ở giai đoạn hiện nay, dẫn đến năng suất mì bị giảm mạnh trong 3 năm trở lại đây. Kết quả điều tra ước tính bệnh khảm lá mì đã làm giảm từ 16,1 - 27,8% năng suất và hàm lượng tinh bột trong củ. Nguyên nhân thứ hai là việc bón phân không đủ và không cân đối dẫn đến năng suất mì của tỉnh thấp và không đồng đều giữa các vùng trồng. Tùy theo mức độ đầu tư mà năng suất đạt được khác nhau. Kết quả điều tra cho thấy, nhóm hộ đầu tư phân bón thấp, năng suất bằng 41,6 - 54,3% so với những hộ đầu tư phân bón ở mức cao. Cùng với đó, độ phì đất thấp là nguyên nhân nội tại của vùng. Kết quả điều tra cho thấy, đất trồng mì chua, nghèo hữu cơ, hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất đều thấp. Lượng các chất dinh dưỡng đa lượng có trong đất chỉ cung cấp được 29 - 40% đạm, 28,2 - 35,6% lân và kali 17,4 - 22% so với nhu cầu của cây mì.

“Giống mì không có mầm bệnh là yếu tố tiên quyết để duy trì năng suất của cây mì. Hai giống mì KM94, HL- S14 sạch bệnh có thể cho năng suất từ 28 - 33 tấn/ha, hàm lượng tinh bột đều đạt trên 28%, tùy theo mức độ chăm sóc...”.

Tiến sĩ NGUYỄN DUY PHƯƠNG
Trưởng Bộ môn Nông hóa, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa 

 

Hướng đến sản xuất bền vững

Từ kết quả nghiên cứu trên, đề tài xây dựng mô hình canh tác tổng hợp cho phát triển cây mì bền vững, với diện tích 13,2ha tại 3 tiểu vùng sinh thái khác nhau, gồm 3ha tại xã Ba Vì (Ba Tơ); 5ha tại xã Tịnh Bình (Sơn Tịnh); 5,2ha tại xã Đức Phong (Mộ Đức). Áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật như: Sử dụng các giống sạch bệnh, các giống có tính kháng bệnh khảm lá (KM94, HL-S14, HN5); trồng xen đậu phụng ở giai đoạn thời kỳ đầu cây mì chưa khép tán, áp dụng công thức phân bón chuyên dùng cho cây mì ở mỗi tiểu vùng sinh thái (đồi núi, trung du và đồng bằng) kết hợp với phân hữu cơ, vùi phế phụ phẩm cây trồng xen và các biện pháp bảo vệ thực vật.

Kết quả thực hiện mô hình ở 3 tiểu vùng sinh thái cho thấy, tại huyện Ba Tơ, năng suất giống mì KM94 sạch bệnh đạt 28,7 - 29,6 tấn/ha; giống HL-S12 đạt 28,5 tấn/ha và giống HL-S14 đạt 29,5 tấn/ha. Năng suất đậu phụng trồng xen đạt từ 683,3 - 743,7kg/ha; khối lượng chất xanh từ thân lá đậu phụng đạt từ 1,03 - 1,42 tấn/ha. Tại huyện Sơn Tịnh, năng suất giống KM94 sạch bệnh đạt 34,2 tấn/ha; giống HL-S12 (29,9 tấn/ha) và giống HL-S14 (29,8 tấn/ha). Năng suất đậu phụng trồng xen đạt từ 862,5 - 975,7kg/ha; khối lượng chất xanh từ thân lá đậu phụng từ 1,37 - 1,56 tấn/ha. Tại huyện Mộ Đức, năng suất các giống mì cũng đạt khá cao. Cụ thể, giống KM94 sạch bệnh đạt 33,5 tấn/ha; KM140 đạt 28,5 tấn/ha; HL-S12 đạt 28,7 tấn/ha; HL-S14 đạt 28,5 tấn/ha. Năng suất đậu phụng trồng xen đạt 815,6 - 977,8kg/ha; khối lượng chất xanh từ thân lá đậu phụng 1,24- 1,56 tấn tươi/ha. Trồng xen đậu phụng với mì cho năng suất đậu phụng dao động từ 0,72 - 0,81 tấn/ha và đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với trồng mì thuần; lợi nhuận từ cây trồng xen đạt từ 5,2 - 9,6 triệu đồng/ha.

Tham quan mô hình canh tác tổng hợp cây mì.
Tham quan mô hình canh tác tổng hợp cây mì.

Ông Vũ Đình Hoàn, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa cho biết, thực hiện mô hình canh tác tổng hợp cho phát triển cây mì bền vững tại Quảng Ngãi, đề tài đã thử nghiệm các loại giống kháng và sạch bệnh gồm HN5, KM94 và HL-S14. Trong quá trình sản xuất, người dân được hướng dẫn đầy đủ các quy trình làm đất, thời gian xuống giống, kỹ thuật hàng cách hàng 80cm, cây cách cây 70cm; liều lượng phân bón, thuốc trừ cỏ ở các chu kỳ, cách thu hoạch cũng như bảo quản, sử dụng hom giống để nâng cao chất lượng cho vụ sau. Nhờ đó, mô hình đã đem lại hiệu quả cao. 

Thu hoạch tại ruộng thử nghiệm, cả 2 giống mì đều cho năng suất trung bình từ 30 - 32 tấn/ha đối với giống HN5 và từ 32 - 35 tấn/ha đối với giống HL-S14, cao hơn từ 5 - 10 tấn/ha so với các giống mì của người dân trồng trước đây. Về hàm lượng tinh bột, giống KM94 sạch bệnh và giống HL-S14 là hai giống cho hàm lượng tinh bột cao nhất, dao động từ 27,9 - 28,6% đối với giống KM94 sạch bệnh và 27,8 - 28,1% đối với giống HL-S14, còn giống HN5 cho hàm lượng tinh bột ở mức khá, dao động từ 25 - 27,7%.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Duy Phương - Trưởng Bộ môn Nông hóa, Viện Thổ nhưỡng Nông hóa, bên cạnh 2 giống KM94 sạch bệnh và HL-S14 sạch bệnh có thể cho năng suất từ 28 - 33 tấn/ha, 2 giống HN1 và HN5 có triển vọng để đưa vào thay thế trong sản xuất, năng suất đạt từ 26,0 - 34,7 tấn/ha, hàm lượng tinh bột đạt 24,5 - 27,5%. Lượng phân bón cho cây mì ở các vùng sinh thái của tỉnh được đề xuất để cho năng suất mì cao là: Vùng miền núi 118kg N + 63kg P2O5 + 104kg K2O; vùng trung du 115kg N + 62kg P2O5 + 117,0kg K2O; vùng đồng bằng 122,0kg N + 65kg P2O5 + 124kg K2O. Để duy trì và nâng cao độ phì nhiêu đất trồng mì trên các vùng sinh thái, hằng năm cần bón ít nhất 3 tấn phân hữu cơ vi sinh, kết hợp với trồng xen cây họ đậu để tận dụng nguồn thân lá vùi lại cho đất. Các giải pháp bảo vệ thực vật cần phải được quan tâm, trong đó để hạn chế cỏ dại nên dùng loại thuốc Combrase 24EC đối với cỏ hòa thảo; thuốc Fuquy 150EC đối với cỏ lá rộng. Nên sử dụng các loại thuốc Imida 20sl và thuốc Actara 25WP để hạn chế tác hại của bọ phấn trắng gây bệnh khảm lá mì trên đồng ruộng. Đối với nhện đỏ hại mì, cần sử dụng các loại thuốc Kyodo 25SC hoặc Ortus 5SC để phun khi mật độ nhện đỏ xuất hiện đến ngưỡng gây hại. Để hạn chế bệnh thối củ mì cần sử dụng các chế phẩm sinh học Trico DHCT với liều dùng 50 kg/ha và SH-BV1 (SH-Lifu) với liều dùng 300 kg/ha.

Bài, ảnh: PHƯƠNG DUNG

 

TIN, BÀI LIÊN QUAN:





 

Xuất bản lúc: 14:23, 24/07/2023

Ý kiến bạn đọc


.